Followers

Bách khoa y học

Người đăng: Doctor Van Thanh Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009 0 nhận xét
| edit post

Vết thương ngoài da

Người đăng: Doctor Van Thanh Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2009 0 nhận xét

Vết thương ngoài da



Một buổi tối bận rộn nấu ăn, bạn hăng say cắt thịt cá, rau cải..., lòng nghĩ đến món ăn nóng hổi và đẹp mắt sắp được dọn trên bàn. Ái! Trong lúc bận suy nghĩ, bạn đã lỡ gọt vào ngón tay của mình.
Một ngày đẹp trời đi leo núi hoặc picnic ngoài trời, bạn cảm thấy trên triền núi có đóa hoa đẹp; thấy sườn không dốc lắm, bạn trèo lên hái nó và khi trở xuống bị bước hụt. Dĩ nhiên là không có gì nghiêm trọng, nhưng bạn vẫn bị vài chỗ sây sát trên cánh tay, trên chân...
Sây sát, trầy trụa, đứt tay... là những chuyện hầu như không thể tránh được trong những sinh hoạt hằng ngày. Dù không nguy hiểm, nhưng khi máu đã chảy ra, bạn cũng cảm thấy đau đớn, muốn vết thương chóng lành, thậm chí còn lo nó bị nhiễm trùng, sưng mủ và gây khó chịu nhiều ngày sau.
Dễ dàng thôi, với một chút kiến thức phổ thông về y tế, bạn có thể giải quyết vấn đề này không chút khó khăn. Và chỉ thêm một chút kiến thức nữa, bạn có thể làm vết thương lành nhanh hơn!
"Chảy máu thì cầm máu; chảy máu thì sát trùng; chảy máu thì dán băng keo, bôi thuốc... Chuyện đơn giản mà." Nhiều người đã nói như vậy. Nhưng bạn có giật mình không khi biết được rằng trong những loại thuốc trị vết thương bán tại tiệm thuốc tây, có loại làm vết thương lành sớm hơn 5 ngày, có loại làm vết thương lâu lành hơn?
Thật vậy, trong một nghiên cứu về hiệu quả của những loại thuốc trị vết thương được bày bán tự do trong các tiệm thuốc tây, bác sĩ Jemes L. đã đưa ra kết quả sau: Một vết thương nếu chỉ được sát trùng mà không dùng thuốc gì khác sẽ tự lành trong khoảng 13 ngày. Cũng vết thương này khi dùng kem hiệu Polysporin sẽ lành trong khoảng 8 ngày; còn nếu dùng các loại thuốc có iốt, như thuốc đỏ chẳng hạn, vết thương sẽ lành trong... gần 16 ngày.
Kết quả này có lẽ sẽ làm một số độc giả cảm thấy rụng rời vì chính mình đã dùng thuốc đỏ rất nhiều lần. Dù sao đi nữa, đây là chuyện có thật, sự thật này đã được chứng minh rõ ràng qua những tài liệu được công bố rộng rãi từ Đại học Y khoa Pennsylvania (Mỹ). Những tài liệu này còn cho biết thêm về hiệu quả của một số thuốc khác: như Neosporin làm lành vết thương trong khoảng 9 ngày, thuốc bôi của hãng Johnson khoảng gần 10 ngày, thuốc xịt Bactine hoặc Methiolate khoảng 14 ngày, thuốc sát trùng Hydrogen Peroxide 3% khoảng hơn 14 ngày, Campho-Phenique khoảng hơn 15 ngày.
Qua những kiến thức nhỏ nói trên, có lẽ bạn đã một phần nào thấy được tầm quan trọng của loại thuốc cần dùng trong việc chữa trị vết trầy, vết cắt. Dưới đây là những chuyện tối thiểu cần làm khi bị các vết thương này.
Cầm máu
Phương pháp nhanh chóng nhất để cầm máu là đè chặt vết thương đừng cho chảy máu ra. Hãy dùng một miếng băng vải hay bông gòn đặt lên vết thương đang chảy máu rồi đè mạnh xuống không cho máu chảy. Nếu không sẵn thứ này, bạn dùng ngón tay đè lên vết thương cũng được. Việc này sẽ làm máu ngưng chảy trong vòng 1-2 phút. Nếu máu vẫn chưa ngưng chảy, nên tìm cách đưa vết thương lên cao hơn độ cao của trái tim. Nếu máu vẫn không cầm thì vết thương của bạn khá nghiêm trọng đấy. Hãy tìm động mạch dẫn máu từ tim đến vết thương, ấn mạnh vào động mạch này để chặn máu từ tim chảy đến (mạch này nằm ở phần trong của hai tay chân, phần da trắng có nổi gân xanh). Bạn sẽ thấy máu bớt chảy ra. Giữ tư thế này chừng 1-2 phút, nếu máu vẫn còn chảy thì tiếp tục ấn cho đến khi cầm mới thôi.
Thông thường, phương pháp trên rất có hiệu quả. Nhưng nếu gặp một vết cắt ngay trên động mạch chính, có thể bạn sẽ phải dùng đến dụng cụ (tourniquet). Đó là một sợi dây hay một băng vải, cột vòng tròn quanh vết thương, sau đó xỏ một que nhỏ như chiếc đũa qua và vặn nhiều vòng để vòng dây xiết lại, ép động mạch nhỏ và làm máu ngưng chảy. Lưu ý: Không bao giờ giữ tourniquet siết quá 1-2 phút; phải mở ra ngay sau khi vết thương thôi chảy máu... Nhiều người đã bị tàn phế một tay hay chân vì dụng cụ này không cho máu nuôi cơ thể quá lâu.
Rửa sạch vết thương
Đây là một trong những bước rất quan trọng để bảo vệ vết thương chống lại sự xâm nhập của vi trùng, vi khuẩn. Nên rửa vết tương bằng xà phòng và nước, cố gắng lấy hết những bụi cát trong vết thương ra. Những bụi cát này nếu không được lấy hết sẽ có thể gây sẹo hay tì vết trên da sau khi vết thương được chữa lành.
Bôi thuốc và băng bó
Nên dùng loại thuốc bôi có kháng sinh. Polysporin là thuốc có công hiệu làm vết thương mau lành nhất. Sau khi bôi thuốc, bạn cần băng bó để vết thương không bị nhiễm trùng, không bị khô và sẽ mau lành hơn. Một số loại băng keo có sẵn thuốc kháng sinh, rất tiện dụng; chỉ cần băng lên là đủ.
Tiêm phòng uốn ván
Khi đạp phải một cây đinh sét, bị một lưỡi dao bằng thép cắt phải, hay bị ngã va đầu gối vào thềm xi măng..., bạn phải tiêm phòng uốn ván.
Chẳng lẽ mỗi lần chảy máu lại phải đi tiêm vacxin này sao? Không đến nỗi vậy. Mỗi lần tiêm có thể mang lại cho bạn sự miễn dịch với uốn ván trong vòng 5 năm.
Mẹo vặt:
Muốn vết thương không để lại sẹo, hãy uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần một viên sinh tố E loại 400 IU. Khi vết thương bắt đầu liền da, dùng kim chích một viên sinh tố E ra, lấy dầu bôi lên vết thương mỗi ngày 2 lần. Tiếp tục cho đến khi lành hẳn.

| edit post

Đọc kết quả khí máu động mạch

Người đăng: Doctor Van Thanh Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009 0 nhận xét

Đọc kết quả khí máu động mạch

Khí máu là một xét nghiệm có thể xa lạ đối với nhiều người nhưng lại rất thông dụng và hữu ích cho ngưới bác sĩ điều trị ở các khoa hô hấp, hồi sức tích cực,thận tiết niệu…Chỉ trong khoảng 15 phút,chúng ta đã có rất nhiều thông số máu,quan trọng là các thông số:
Ph,PaCO2,SaO2.H2CO3 std,Hct,Na+,K+,Ca 2+…giúp các bs bước đầu xđ được các rối loạn thông khí máu,rối loạn cân bằng axit base…từ đó xác định nguyên nhân và chữa trị.

Các trường hợp cần làm khí máu động mạch:

1) suy hô hấp mọi nguyên nhân: tại phổi hay ngoài phổi

2) suy tuần hoàn, choáng, nhiễm trùng máu (SEPSIS)

3) suy thận & bệnh lý ống thận

4) bệnh nội tiết: đái tháo đường nhiễm toan ceton, bệnh vỏ thượng thận, suy giáp

5) hôn mê, ngộ độc

6) bệnh tiêu hóa: ói, tiêu chảy, dò túi mật or ruột non, tụy tạng

7) các rối loạn điện giải: tăng giảm K máu, Chlor máu

8) theo dõi điều trị: oxy liệu pháp, thở máy, nuôi ăn qua đường tĩnh mạch, lọc thận, truyền dịch or truyền máu lượng lớn, điều trị lợi tiểu..

-> tóm lại: suy hô hấp - suy thận - đái tháo đường - rối loạn điện giải - hôn mê ngộ độc, thở oxy - lọc thận - truyền dịch/ máu lượng nhiều..hay các căn nguyên làm thay đổi PH máu

Kỹ thuật lấy máu xét nghiệm

Dùng kim tiêm 1ml hay 5ml(tùy vị trí) đã tráng heparin chọc vào các vị trí:đm cảnh,đm đùi,đm quay,,,tránh chọc nhầm váo máu tĩnh mạch.Phân biệt bằng áp lực và màu sắc máu…khi đã có xét nghiệm thì là SaO2 máu:động mạch thường >96%

Một số thông khí máu cơ bản

1. PH

Cho biết trạng thái thăng bằng kiềm toan.

Các phản ứng trong cơ thể đều diễn ra trong 1 Ph nhất định nhưng trong quá trình chuyển hóa luôn đào thải ra H+,một số bệnh lý cũng làm thay đổi Ph.Để đảm bảo Ph trong 1 giới hạn nhất định,cơ thể đáp ứng bằng cách:

a) Sử dụng các hệ thống đệm (tế bào và huyết tương)

Tế bào:K2CO3/KHCO3,KH2PO4/K2HPO4,H – Pr/k – Pr,H-Hb/k-Hb,H-HbO2/K-HbO2….

Bào tương:K2CO3/KHCO3, KH2PO4/K2HPO4,H – Pr/K – Pr

Khi lượng acid vượt quá khả năng đệm nội bào, cơ thể sẽ đào thải ra máu.Vì vậy để đánh giá ph của cơ thể ta chỉ cần đo ph máu.

Tuy hiệu suất đệm của máu của hệ đệm bicarbonat là thấp nhưng do lượng HCO3- trong máu cao 28 mEq/l nên khả năng đệm của nó là lớn nhất,gấp đôi hệ đệm khác trong máu, quyết định thăng bằng acid base của máu.Nếu Ph xác định dựa theo phương trình Henderson Hasselbach, ta có:

Công thức tínhH=6,1 + lg[HCO3-] / [H2CO3] = 6,1 + lg [HCO3-] / 0,03*PaCO2

(0,03 là độ tan O2 trong máu)Bình thường 7,35 à7,45.<7,35 toan máu,>7,45 kiềm máu

Để đảm bảo Ph luôn ở 7,35 đến 7,45, [HCO3-] / [H2CO3] = 20/1 tức là [HCO3-] phải tỷ lệ thuận với PaCO2 máu.

b)Đào thải acid bay hơi như CO2 qua phổi(nhanh nhưng ko triệt để)

c) Đào thải acid ko bay hơi qua thận (chậm nhưng triệt để)

2. pCO2

* bình thường 35 - 45 mmHg (40 +/- 5).
* là phân áp carbon dioxide trong máu (áp suất phần của khí CO2 đã thăng bằng với máu).
* trong máu: ĐM -> PaCO2, TM -> PvCO2.
* PaCO2 được điều chỉnh bởi phổi -> là thành phần hô hấp của thăng bằng kiềm toan.
* Ý nghĩa: phản ánh trực tiếp mức độ thông khí phế nang có phù hợp với tốc độ chuyển hóa của cơ thể không -> dùng trong LS để đánh giá thông khí phế nang.
* không đổi theo tuổi. (có thể) giảm khi đối tượng gia tăng thông khí (do lo lắng, lên độ cao > 2.500m).
* PaCO2 ảnh hưởng đến pH theo phương trình:

CO2 + H2O <-> H2CO3 <-> HCO3- + H+

-> PaCO2 tăng: sẽ chuyển hướng phương trình qua phải: toan hô hấp.

-> PaCO2 giảm: sẽ chuyển hướng phương trình qua trái: kiềm hô hấp.

* giá trị:

+ > 45 -> giảm thông khí phế nang -> mức thông khí thấp hơn nhu cầu thải CO2 của cơ thể.

-> nguyên nhân: 1.giảm thông khí phế nang, 2.bất xứng giữa thông khí và tưới máu.

+ < 35 -> tăng thông khí phế nang -> mức thông khí cao hơn nhu cầu thải CO2 của cơ thể.

-> nguyên nhân: 1.giảm PaO2, 2.giảm pH, 3. hệ thần kinh bị kích thích, 4. cho thở máy quá đáng.


3. HCO3 std (HCO3 chuẩn - standard bicarbonate)

* bt: 29,3+-1.2 mEq/L
* là nồng độ Bicarbonate trong máu động mạch khi các thông số khác quy về điều kiện chuẩn (HCO3- khi PaCO2 = 40mmHg, bão hòa với oxy và ở 37oC).
* HCO3 được điều chỉnh bởi thận, là thành phần chuyển hóa của thăng bằng kiềm toan.

4. HCO3 act (HCO3 thực – actual bicarbonate)

Kết quả thực tế HCO3 đo được ở bệnh nhân

5. Kiềm dư(excess base EB)

Lượng kiềm chênh lệnh giữ kiềm đệm mà ta đo được và kiềm đệm bình thường

Bình thường: 0 +- 1,9 mEq/l

Đọc khí máu động mạch

1. PH < 7,35 -->nhiễm toan

+)Pco2<45 --->toan chuyển hóa
Bây giờ ta xem có rối loan toan kiềm phối hợp hay không,ta sử dụng công thức:X = 1,5 *(HCO3-) +8<+-2>
X chính PCo2 dự kiến với đáp ứng bù trừ của hệ đệm bicarbonat nếu chỉ có toan chuyển hóa đơn thuần
Nếu X = Pco2 --->nhiễm toan chuyển hóa bù trừ không hoàn toàn
X > Pco2 --->nhiễm toan chuyển hóa và kiềm hô hấp, do kiềm hô hấp nên đã làm giảm PCo2 hơn dự kiến
X < Pco2 --->nhiễm toan chuyển hóa và toan hô hấp kéo theo làm tăng PCO2 hơn dự kiến

+)Pco2> 45 --->toan hô hấp
Y = [/_\ PH : /_\ PCO2] * 100
Y = 0,8 ------>toan hô hấp mãn(Ta ngầm hiểu 0,8 ở đây chính là nồng độ HCO3- thay đổi phù hợp với sự thay đổi PCO2 và PH)
Y > 0,8 ------>toan hô hấp phối hợp kiềm chuyển hoá(Kiềm chuyển hoá đã làm cho[HCo3-] cao hơn dự đoán
Y < 0,3 ------->toan hô hấp phối hợp toan chuyển hoá
0,3 < Y < 0,8---> toan hô hấp cấp trên nền toan hô hấp mãn

2. PH > 7,45 -->nhiễm kiềm

+)Pco2 >35 ->nhiễm kiềm chuyển hóa
X = 0,7 *(HCO3-) +20<+-2>

Nếu X = Pco2 --->nhiễmkiềm chuyển hóa bù trừ không hoàn toàn
X > Pco2 --->nhiễm kiềm chuyển hóa và kiềm hô hấp, do kiềm hô hấp nên đã làm giảm PCo2 hơn dự kiến
X < Pco2 --->nhiễm toan chuyển hóa và toan hô hấp kéo theo làm tăng PCO2 hơn dự kiến
+)Pco2 <35 --->kiềm hô hấp
Y = [/_\ PH : /_\ PCO2] * 100

Y = 0,8 ------>kiềm hô hấp mãn
Y > 0,8 ------>kiềm hô hấp phối hợp kiềm chuyển hoá
Y < 0,3 ------->kiềm hô hấp phối hợp toan chuyển hoá
0,3 < Y < 0,8---> kiềm hô hấp cấp trên nền kiềm hô hấp mãn

3.PH bình thường

PaCO2 thấp: kiềm hô hấp và toan chuyển hóa hỗn hợp(nếu PH nghiêng về 7,35 hơn thì toan chuyển hóa là nguyên phát và ngược lại)

PaCO2 cao: Toan hô hấp và kiềm chuyển hóa phối hợp (nếu PH nghiêng về 7,35 hơn toan hô hấp là nguyên phát và ngược lại)

PaCO2 bình thường: Bình thường nếu AG bình thường hoặc Có thể kiềm chuyển hoá nguyên phát kèm toan chuyển hoá nguyên phát (AG tăng) Lưu ý:Trong trường hợp nhiễm toan chuyển hóa có thể do mất HCO3- hoặc Tăng H+ như acid lactic,the centonic..vi vậy phải xác định nguyên nhân nào để tìm cách giải quyết.Để làm được ta dựa vào khoảng trống ion(anion Gap), AG = Na+ - (Cl- + HCO3-) .AG chính là nồng độ các ion ko đo trong máu. AG = 10 - 14 mEq/l.Toan ch do mất HCO3- thì AG bình thường do Cl- bù trừ lại và ngược lại AG tăng khi máu có thêm H+

Ghi chú :^PCO2 = /PCO2 - 40/ ^PH = /PH - 7,4/; HCO3- là HCO3 - act

Nhiều bạn hỏi công thức trên được lấy từ đâu?nguyên lý nào?Công thức này có được do thực tế lâm sàng và thức tế lâm sáng chứng minh là đúng và phổ biến rộng rãi.Nó như 1 tiên đề trong toán học,bạn bắt buộc phải nhớ.

các chỉ số PH,pCO2 trong công thức là các chỉ số đo được thực tế trên bệnh nhân chứ ko phải ở đk chuẩn.

Một bệnh nhân bị suy thận mạn.Sau khi làm khí máu động mạch có kết quả như sau:.
. pH 7,25
. pCO2 27,3
. pO2 82,2
. HCO3- 14,2

Na+ 142 mmol/l; Cl- 100 mmol/l;

PH = 7,25 < 7,35 --------> toan máu

pCO2 < 35---------------->toan chuyển hóa nguyên phát

Bây giờ ta xem có rối loạn toan kiềm phối hợp hay không. pCO2 dự tính = 1,5 *14,2 + 8(+-2) = 29+-2 = pCO2 thực tế ----------->toan chuyển hóa đơn thuần

AG = 142 - 100 - 14,2 = 27,8 > 14------------>toan chuyển hóa do kém đào thải ion H+ qua thận do bệnh nhận bị suy thận.

E.Nguyên nhân và cách điều trị rối loạn cân bằng acid base

-) TOAN CHUYỂN HÓA

AG :12 ± 2 mEq/L
+ : Toan chuyển hóa có anion gap tăng (do tăng H+)

Nguyên nhân:
Nhiễm toan ketones : gặp trong những bệnh lý tiểu đường phụ thuộc insulin, ức chế sự phóng thích insulin, hạ đường huyết hay bệnh lý về gan.
Nhiễm toan ketones do rượu: nôn ói, suy dinh dưỡng và giảm thể tích dịch ngoại bào.
Nhiễm toan acid lactic : do giảm tưới máu mô hoặc giảm oxy máu như ngưng tim ngưng thở, shock, phù phổi, ngộ độc CO, động kinh cơn lớn, hoạt động thể lực trong điều kiện thiếu dưỡng khí, suyễn nặng, bệnh lý ác tính, tiểu đường, một số tình trạng ngộ độc (salicylate, cyanide, ethanol), một số thuốc như ức chế men sao chép ngược nucleoside hay metformin.
Suy thận : toan chuyển hoá xảy ra khi GFR giảm <20-30 ml/phút, có sự gia tăng các sulfat, phosphat, anion hữu cơ và một phần do giảm bài tiết NH4+.
Ngộ độc với methanol và ethylene glycol .
+) Toan chuyển hoá vơí khoảng trống anion bình thường (giảm HCO3 được bù trừ bằng tăng Cl-)
AG = UA- UC = Na+ - (HCO3- + Cl-)
Do mất bicarbonat :
Tại thận : Mất HCO3- qua đường thận hoặc toan hoá ống thận gần do sự suy giảm tái hấp thu HCO3- ở ống thận gần và sự sinh NH4+ toan hoá ống thận gần có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp với những khiếm khuyết vận chuyển ở ống thận khác (hội chứng Fanconi) biểu hiện : tiểu đường, tiểu aminoacid, giảm acid uric máu, giảm phosphat máu.
Nguyên nhân : Bệnh lý di truyền (như cystinosis, bệnh Wilson), do độc tố (kim loại nặng, Tetracyclin quá hạn), đa u tuỷ, bệnh lý tự miễn. Bệnh lý về xương : osteopenia, nhuyễn xương thường kết hợp với toan hoá ống thận gần.
Chẩn đoán dựa vào NaHCO3 chích TM và chứng minh được có tình trạng tiểu HCO3- khi nồng độ HCO3- trong máu gần về bình thường : pH niệu>7, phân suất bài tiết HCO3- >15%. Tỷ suất này được tính theo công thức sau :
Phân suất bài tiết HCO3- = [HCO3-]niệu x [cre] máu /[HCO3-] máu x [cre] niệu
Điều trị : Điều chỉnh bệnh lý cơ bản và dùng một lượng lớn chất kiềm từ 10-15 mEq/kg/ngày. Muối citrat có thể ít gây tác dụng phụ hơn HCO3-. Thuốc lợi tiểu Thiazide có thể được dùng để tăng tái hấp thu HCO3- ở ống thận gần bằng cách làm giảm nhẹ thể tích dịch ngoại bào.
4
Ngoài thận : tiêu chảy, dẫn lưu mật, dò ruột, dò tụy, nối niệu quản vào ruột già…
Tăng hấp thu acid (kèm chlor) như uống HCl, NH4Cl, Lysine, Arginin…
Giảm bài tiết NH4+ hoặc toan hoá ống thận xa: thường đi kèm với những bệnh lý và là hậu quả do giảm NH3 trong mô kẽ cuả vùng tuỷ thận (pH niệu M<5.3) hoặc giảm bài tiết H+ ở ống thận xa (pH niệu>5.8).
Nồng độ NH3 thấp ở vùng tuỷ thận (pH niệu <5.3) có thể do giảm sinh NH3 (thường kèm suy thận hoặc tăng K+ máu) hoặc do nhiều bệnh lý ống thận mô kẽ như bệnh lý tự miễn, tăng gamma globulin máu, sỏi thận…
Giảm bài tiết H+ ở ống lượn xa (pH niệu>5.8) có thể do bệnh lý tự miễn hay bệnh lý ở vùng mô kẽ tủy thận, giảm Adosterone hoặc đề kháng mineralocorticoids hay do dò ngược H+ do tăng tính thấm cuả màng.
Điều trị toan hoá ống thận xa : phải điều chỉnh bệnh căn bản. Điều chỉnh bao gồm bồi hoàn HCO3- (1-2 mEq/kg/ngày) dưới dạng NaHCO3 hay muối Na-citrate. Điều trị tăng kali máu bằng cách giảm Kali trong khẩu phần ăn (40-60 mEq/ngày) và có thể dùng lợi tiểu quai. Dùng Kayexalate lâu dài có thể cần thiết. Việc sử dụng mineralocorticoid (fludrocortisone 100-200 μg uống mỗi ngày) ở những bệnh nhân suy thượng thận tiên phát.
A.3 : Điều trị bằng NaHCO3
-Chỉ thích hợp với toan chuyển hoá với anion gap bình thường để pH tối thiểu đạt 7.2 làm giảm nguy cơ loạn nhịp tim và tăng co bóp cơ tim, [HCO3-] phải nâng lên >5 mEq/L nếu pCO2 <20 mmHg. Công thức bù NaHCO3 :
[HCO3-] thiếu = 0.5 x Trọng lượng cơ thể x (24- [HCO3-])
Truyền TM nhanh NaHCO3 chỉ dùng trong những trường hợp toan máu nặng, chú ý đến các phản ứng phụ như phù phổi cấp, giảm kali máu, giảm calci máu.
-Trong nhiễm toan ceton acid, chỉ định truyền khi :
Kèm sốc và hôn mê
Toan nặng pH<7.1
HCO3 < 5 mEq/L
Có rối loạn tuần hoàn hay hô hấp
-) KIỀM CHUYỂN HÓA : Tăng HCO3- tiên phát do tăng HCO3- (mất H+) hoặc do giảm thể tích dịch ngoại bào. Để duy trì điện tích, tăng HCO3- phải đi kèm với mất Chlor hoặc tăng Natri.
Nguyên nhân :
1. Mất Cl- là hậu quả của nôn ói (do đặt tube Levine, villous adenoma) hay tiêu chảy mất Cl- hay sử dụng lợi tiểu. Hậu quả là dẫn đến giảm thể tích dịch ngoại bào và mất Kali, toan hoá dịch nội bào, tăng tiết NH4+ (tạo ra HCO3- mới)
2. Dùng các ion không hấp thu (Penicillin hay Carbenicillin), tình trạng sau tăng thán khí, hội chứng Bartter, mất Mg2+ cũng gây kiềm chuyển hoá đi kèm với giảm thể tích dịch ngoại bào.
3. Sử dụng NaHCO3 ngoại sinh, chuyển hoá các anion hữu cơ (citrate, acetate, lactate, anion ketoacid…) hoặc hội chứng sưã kiềm (milk-alkali)
4. Giảm bài tiết HCO3- ở thận xuất hiện khi có hiện tượng giảm độ lọc cầu thận, tăng tái hấp thu HCO3- ở ống thận (do giảm thể tích tuần hoàn, giảm kali máu và cường Aldosteron).
5. Kiềm chuyển hoá có thể đi kèm giảm kali máu do tăng minerocorticoids tiên phát hoặc cường Aldosteron thứ phát (hẹp động mạch thận, tăng huyết áp ác tính, bướu tiết renin)
Chẩn đoán:
Dựa vào bệnh sử, chú ý đến thói quen ăn uống (ói mửa) và dùng thuốc (lợi tiểu).
Khám thực thể cần đánh giá huyết áp và thể tích dịch ngoại bào. Hai nguyên nhân thường gặp của kiềm chuyển hoá là ói mưả và dùng lợi tiểu, thường kết hợp với giảm thể tích dịch ngoại bào. Ngược lại, tăng renin tiên phát có thể tích dịch ngoại bào tăng hoặc bình thường.
Cận lâm sàng : Ion đồ niệu được sử dụng để phân loại nguyên nhân kiềm chuyển hoá khi bệnh sử không rõ ràng.
-Nồng độ Cl- niệu thấp (<20 mmol/L) và giảm thể tích dịch ngoại bào gợi ý do ói mửa hay dùng lợi tiểu.
-Những trường hợp ói mưả mới xảy ra thường đi kèm với nước tiểu kiềm (pH>7), tăng chênh lệch nồng độ kali qua ống thận (TTKG) và nồng độ Na+ niệu >20 mEq/L.
-Nồng độ Na+ niệu và Cl- niệu đều >20 mmol/L sau khi mới dùng lợi tiểu.
-Nếu không có giảm thể tích dịch ngoại bào, có tăng huyết áp, nồng độ Na+ và Cl- >20mmol/L, TTKG cao là dấu hiệu gợi ý tăng mineralocorticoids.
Điều trị :
Điều trị các bệnh lý căn bản và bồi hoàn lượng NaCl và KCl thiếu. Nếu giảm thể tích dịch ngoại bào nên dùng dung dịch NaCl đẳng trương. Muối KCl dùng để điều chỉnh tình trạng thiếu kali và toan hoá trong tế bào.
Kiềm chuyển hoá do một số nguyên nhân có thể kháng với điều trị NaCl như phù, suy thận, tăng minerocorticoids, giảm trầm trọng Kali hay Magiê. Những bệnh lý này thường kết hợp với thể tích dịch ngoại bào bình thường hoặc tăng, vì thế sử dụng NaCl có thể nguy hiểm mà không hiệu quả.
Cường aldosteron có thể dùng lợi tiểu tiết kiệm Kali (Amiloride hay Spironolactone) kèm với bồi hoàn Kali và Magiê bị thiếu hụt. Acetazolamide làm tăng thải bicarbonat trong nước tiểu nhưng cũng làm mất Kali ở thận. Kiềm chuyển hoá có suy thận kèm theo có thể chạy thận nhân tạo. Kiềm máu nặng (pH>7.7) với thể tích dịch ngoại bào tăng hay kèm suy thận, hay cả hai, có thể xử trí với HCl đẳng trương (150mmol/L) qua tĩnh mạch trung tâm.

*TOAN HÔ HẤP

Chẩn đoán:
Toan hô hấp là khi có giảm pH và tăng pCO2 trên kết quả khí máu. Tăng CO2 là hậu quả cuả sự giảm thông khí phế nang, do một hay nhiều nguyên nhân sau:
Ức chế trung tâm hô hấp (do thuốc, ngưng thở lúc ngủ, béo phì, bệnh lý thần kinh trung ương)

Bệnh lý thần kinh cơ (nhược cơ trầm trọng, hội chứng Guillian Barre, giảm Kali máu, bệnh lý cơ)
Tắc nghẽn đường hô hấp trên
Bệnh lý cuả phổi (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, phù phổi, khí phế thủng, viêm phổi)
Giảm thông khí cơ học
Phải xác định sự thay đổi nồng độ H+ có thích hợp với pCO2 không để phân biệt bệnh lý hô hấp cấp hay mạn. Mỗi mmHg tăng thêm khi pCO2>40 mmHg tương ứng với sự giảm pH 0.008 (cấp) và 0.003 (mạn). Đáp ứng cuả thận chỉ xảy ra sau vài ngày tạo nên sự tăng bài tiết acid và tăng nồng độ HCO3- trong máu.
Điều trị :
Điều chỉnh từ nguyên nhân và cải thiện thông khí. Sử dụng NaHCO3 có thể làm kịch phát tình trạng phù phổi, tăng thán và dẫn đến kiềm chuyển hoá. Tuy nhiên, một số bệnh nhân hen ác tính thở máy có toan máu nặng (pH<7.15) có thể sử dụng liều nhỏ NaHCO3 44-88 mEq/L. Đặc biệt là nồng độ HCO3- trong máu cao cho phép kiểm soát nồng độ H+ với mức cao để giảm thông khí phút và giảm áp lực đỉnh đường thở, do đó làm giảm chấn thương do khí áp.

* KIỀM HÔ HẤP

Chẩn đoán:
Kiềm hô hấp là hậu quả cuả sự loại bỏ CO2 quá mức mà nó được tạo ra. Chẩn đoán dựa vào tăng pH và giảm pCO2 trên khí máu động mạch. Nguyên nhân gồm:
Giảm oxy máu (bệnh lý phổi, thiếu máu, suy tim, vùng cao)
Kích thích trung tâm hô hấp (bệnh lý thần kinh trung ương, suy gan, nhiễm trùng gram âm, thuốc : salicylate, progesteron, theophyllin, catecholamine), có thai, tâm lý
Bệnh phổi (viêm phổi, phù phổi, thuyên tắc phổi, xơ hoá mô kẽ)
Tăng thông khí cơ học.
Phải đánh giá đáp ứng bù trừ của thận, nếu không thích hợp có thể có rối loạn acid-bazơ hỗn hợp.
Điều trị :
Tập trung điều trị theo bệnh nguyên nhân. Ở bệnh nhân nằm ICU, có thể cần phải thay đổi phương thức thông khí. Vì kiềm hô hấp có thể dẫn đến hạ phospho, kali máu, gây nhịp nhanh và rối loạn hệ thống thần kinh trung ương nên việc điều trị cần nhanh chóng.

| edit post

Cái gì quyết định men răng?

Người đăng: Doctor Van Thanh Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009 0 nhận xét

Cái gì quyết định men răng?

1. Răng trắng do di truyền

 
 

Đúng.

 
 

Tạo hoá đôi khi thật không công bằng!

 
 

Màu trắng của răng có liên quan tới yếu tố di truyền. Nghĩa là bạn sẽ kế thừa mạnh mẽ màu men răng hơi xỉn của bố mẹ bạn.

 
 

2. Cà phê, trà xanh và rượu vang đỏ làm ố răng

 
 

Đúng.

 
 

Chất tanin có trong thành phần cà phê, trà, rượu vang đỏ chính là thủ phạm làm ố vàng men răng.

 
 

Tốt hết sau khi thưởng thức những đồ uống này, hãy súc miệng bằng nước lọc. Đánh răng ngày 2 lần và lấy cao răng đều đặn cũng là biện pháp hữu hiệu ngăn chặn sự "xuống sắc" của răng đấy!

 
 

3. Chanh là chất tẩy trắng tự nhiên tuyệt vời cho răng

 
 

Sai.

 
 

Axit trong chanh có thể làm trắng trong một khoảng thời gian ngắn nhưng đồng thời lại phá huỷ các chất khoáng, nhất là canxi trong cấu trúc men răng, làm men răng yếu đi.

 
 

4. Mảng bám răng (bựa răng) không làm hỏng màu men răng

 
 

Sai.

 
 

Lớp quánh dính không màu bám trên bề mặt răng ảnh hưởng xấu tới màu sắc của răng. Để tránh các mảng bám răng, cao răng hình thành, hãy vệ sinh răng miệng sạch sẽ và đến phòng khám nha khoa theo định kỳ.

 
 

5. Dù rằng bicarbonate làm trắng răng, nhưng về lâu về dài nó lại làm hỏng men răng

 
 

Sai.

 
 

 Bicarbonate có trong thành phần kem đánh răng chẳng gây ra mối hại nào cả!

6. Đánh son môi màu đỏ làm vàng răng

 
 

Đúng.

 
 

Nếu răng bạn không được trắng, do yếu tố thị giác, son môi màu đỏ chỉ khiến răng bạn trông vàng hơn mà thôi.

 
 

7. Táo giúp răng sáng bóng

 
 

Đúng.

 
 

Theo các nha sĩ, ăn một trái táo mỗi ngày chính là cách hữu hiệu nhất làm sạch răng mà vẫn giữ được lớp men sáng bóng.

 
 

8. Hút thuốc làm biến đổi màu răng

 
 

Đúng.

 
 

Thuốc lá làm ố răng, làm yếu lợi, và đem đến hơi thở hôi…

 
 

9. Thời gian và độ sáng bóng của răng tỉ lệ nghịch với nhau

 
 

Đúng.

 
 

Cũng giống như các bộ phận khác trên cơ thể, răng cũng chịu sự tác động của quá trình lão hoá. Theo năm tháng, một số thành phần trong cấu trúc răng bị thay đổi, và tất nhiên màu răng trắng cũng không thoát khỏi quy luật ấy.

Sổ mũi

Người đăng: Doctor Van Thanh Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009 0 nhận xét

Sổ mũi

Trung bình mỗi ngày có khoảng 9.000 lít không khí đi qua lỗ mũi của một người trưởng thành để vào phổi. Dù không khí có khô đến đâu, có lạnh đến đâu đi nữa, mũi vẫn phải làm cho không khí đủ ấm (vừa bằng với thân nhiệt) và ẩm (bằng độ ẩm của cơ thể) trước khi vào đến phổi; nếu không, phổi sẽ bị hư hại. Tại sao mũi có thể làm được chuyện này, khi chiều dài của khí quản từ mũi đến phổi chỉ dài trên dưới hai tấc tây?
Trên đường từ lỗ mũi vào phổi, không khí phải đi qua 2 buồng trống nằm hai bên cánh mũi và phía dưới mắt. Tại những buồng trống này có các tuyến tiết ra nước mũi để làm không khí đủ ẩm khi vào đến phổi. Các tuyến này mỗi ngày trung bình tiết ra chừng 2 lít nước mũi để giữ ẩm cho các cơ trong mũi, miệng, cổ họng và các buồng không khí nói trên.
Thông thường, nước mũi chảy dọc xuống theo vách sau của mũi và cổ họng, kế đó được đánh văng lên do một số tế bào mỏng như chỉ (các tế bào này lúc nào cũng phe phẩy qua lại, có công dụng như một cây chổi quét dọn những vật có thể làm nghẽn lối không khí lưu thông; đồng thời, các nhu động này cũng làm nước mũi bay hơi để làm ẩm không khí).
Trong những mùa không khí quá khô, chất đờm trong cổ họng bị khô lại và trở nên dính như keo. Chất này làm nhu động phe phẩy của những tế bào hình sợi chậm lại (một số loại vi khuẩn cũng có khả năng làm các tế bào này bị tê liệt, không phe phẩy được). Khi đó, nước mũi sẽ đọng lại thành vũng ở vách sau của mũi, không khí ra vào mạnh thường tạo nên tiếng kêu sột soạt, và như thế là bạn đã bị sổ mũi.
Bây giờ bạn đã biết được nước mũi ở đâu mà chảy ra hoài như vậy; giai đoạn kế tiếp là tìm cách ngăn chặn chúng bằng những phương pháp sau đây:
Rửa mũi bằng nước muối
Nước mũi đọng lại thành chất keo thường là nguyên nhân của chứng sổ mũi. Vì thế, bạn nên rửa chất keo này bằng nước muối để các tế bào hình sợi có thể hoạt động bình thường trở lại.
Hãy pha nửa thìa cà phê muối vào 1/4 lít nước (tương đương với khoảng 2/3 lon bia). Bạn có thể dùng dụng cụ nhỏ giọt hoặc một chai thuốc nhỏ mũi đã hết, cho nước muối vào đó, ngửa mặt lên cho nước muối có thể chảy vào mũi. Kế đó xịt nước muối vào mũi; trong lúc xịt, nhớ hít nhẹ để giúp nước muối vào mũi sâu hơn.
Bạn sợ nước muối vào mũi sẽ tạo cảm giác khó chịu? Không đâu, dung dịch nước muối được pha như trên có nồng độ gần bằng nồng độ muối trong cơ thể, và bạn sẽ cảm thấy nó giống như nước mũi, nước miếng của chính bạn, hoàn toàn không chút khó chịu nào. Mỗi lần rửa mũi, nên xịt chừng vài ba lần, sẽ thấy có hiệu quả.
Súc miệng bằng nước muối
Cũng với dung dịch nước muối pha sẵn với nồng độ như trên (nửa thìa cà phê muối trong 1/4 lít nước), hãy ngậm một ngụm vào miệng, rồi ngửa cổ lên cho nước muối chảy vào cổ họng. Đừng nuốt, hãy tống hơi lên cho nước muối bị đẩy ngược trở lại, tạo nên tiếng động trong cổ họng.
Nước muối vào cổ họng có công dụng rửa bộ phận phát âm trong đó. Khi bạn thổi hơi lên nhiều, một phần nước muối bị tống ngược lên mũi và rửa cho mũi sạch hơn.
Uống nhiều nước
Việc uống nhiều nước có thể giúp cuốn trôi đi một số đờm hay nước mũi còn đọng lại trong cổ họng, giúp bạn ít phải đằng hắng hơn. Nên uống nước ấm có pha chút chanh là tốt nhất. Có thể pha thêm đường hay mật nếu không quen với vị chua của chanh.
Đừng ăn cay
Có lẽ bạn từng có cảm giác nước mũi chảy ra khi ăn quá cay. Các chất cay như tiêu, ớt, mù tạt, càri... có tác dụng kích thích nước mũi chảy ra nhiều hơn.
Đừng uống sữa
Khi bị sổ mũi vì vi khuẩn xâm nhập đường hô hấp, không nên uống sữa bò vì nó sẽ cung cấp chất dinh dưỡng, giúp cho các vi khuẩn này sống mạnh, sống lâu và sinh sản mau lẹ hơn. Trong sữa bò có rất nhiều chất lactose, một loại đường được các vi khuẩn rất ưa thích. Đồng thời, những thực phẩm làm từ sữa như kem cũng không nên ăn nhiều.
Có phải bạn thường sổ mũi khi lo nghĩ nhiều?
Một số người thường bị sổ mũi hay nghẹt mũi khi buồn phiền hay lo lắng nhiều. Bác sĩ Jerold tại Đại học y khoa Washington cho biết, hệ thần kinh đảm nhiệm việc điều hành và giữ ấm đường hô hấp. Khi một người lo lắng hay buồn phiền, thần kinh hệ thường không hoàn thành được nhiệm vụ này. Nếu bạn để ý thấy chuyện này có xảy ra cho mình, hãy cố quên đi sự buồn phiền bằng cách tìm những chuyện vui!
Chỉ dùng thuốc khi cần thiết
Các dược phẩm thuốc bán tự do ngoài hiệu thuốc tây dưới cái tên nasal decongestant (thuốc trị nghẹt mũi), antihistamine (thuốc trị dị ứng, thường có công dụng làm mũi ngưng chảy nước) tuy có thể làm bạn dễ chịu hơn nhưng cũng không nên uống thường xuyên vì chúng có thể gây lệ thuộc thuốc.
Thuốc decongestant loại xịt hay nhỏ vào mũi chỉ có thể dùng tối đa 3 ngày, việc dùng lâu hơn có thể gây biến chứng ngược, thường làm mũi bị bít kín lại. Thuốc antihistamine có thể gây chứng buồn ngủ, bần thần; không nên uống lúc lái xe hoặc điều khiển máy móc nguy hiểm.
Ngăn ngừa bằng máy phun hơi ẩm
Khi trời khô, chúng ta phải hít vào không khí quá khô ráo và việc này thường dẫn đến chứng sổ mũi hay nghẹt mũi. Tốt nhất là trong phòng ngủ nên có một máy phun hơi ẩm loại tự động (humidipier). Loại này thường tự phun hơi ẩm lên lúc không khí trở nên khô, ngăn ngừa được chứng sổ mũi, nghẹt mũi.

Say sóng

Người đăng: Doctor Van Thanh 0 nhận xét

Say sóng


Bạn ngồi trên một chiếc tàu lướt trên những đợt sóng nhấp nhô, dập dồn, hoặc trên một chiếc xe với người tài xế có tật lái ẩu, phanh gấp, vọt nhanh, bẻ cua gắt, trên một phi cơ đang bay qua những cụm mây, nhồi lên hụp xuống vì mật độ hay áp suất không khí chung quanh thay đổi quá nhanh... Và bạn cảm thấy chóng mặt, kế đó là triệu chứng đổ mồ hôi lạnh, mặt mày tái đi, nghe nhộn nhạo trong lồng ngực và nôn. Đó là hiện tượng say sóng mà hầu như ai cũng bị, không ít thì nhiều.
Theo bác sĩ Rafael (Mỹ), say sóng là một hiện tượng xuất hiện khi bộ não nhận được những dữ kiện sai lệch từ môi trường bên ngoài.
Để hoàn thành nhiệm vụ giữ cho thân mình được thăng bằng (không ngả nghiêng), hệ thống cảm nhận của cơ thể không ngừng thu nhận những dữ kiện từ môi trường chung quanh và gởi những dữ kiện này về một bộ phận nằm bên trong lỗ tai. Bộ phận này có chức năng giống như một máy điện toán, nó sắp xếp các dữ liệu theo thứ tự và chuyển lên óc. Sự say sóng xảy ra khi các dữ kiện chuyển từ bộ phận này lên óc không giống như các dữ kiện mà mắt nhìn thấy.
Khi bạn bắt đầu cảm thấy chóng mặt thì có lẽ đã hơi trễ trong việc tìm cách chặn đứng cơn say sóng lại, cơn nôn mửa có thể tiếp nối chỉ trong một vài phút sau. Những mẹo vặt dưới đây có thể giúp bạn kiềm chế phần nào cơn say sóng đã đến, và chặn đứng cơn say sóng khi nó chưa đến (và sẽ đến trong vài phút nếu bạn không hành động kịp thời).
Giữ cho mắt đừng nhìn vào những vật di chuyển
Bạn hay bị say sóng nhất khi chuyên chú nhìn vào một vật cứ lắc lư tới lui theo những chuyển động không đoán trước được. Chẳng hạn như việc đọc sách báo trên xe. Tờ báo cứ di chuyển theo nhịp chuyển động của xe, và mắt bạn cứ phải chuyển động theo để có thể đọc. Những hành động tương tự cũng có thể làm say sóng như chăm chú đan móc một chiếc áo len trên xe hay trên thuyền, săn sóc cho những người bị say sóng trước mình. Hành động này làm bạn phải chăm chú vào người bị say sóng hoặc chăm chú tìm thuốc men cho họ; và những người săn sóc cho người say sóng sẽ là nạn nhân kế tiếp.
Từ kết quả này, bạn có thể tìm ra những điểm nhìn ít tạo say sóng nhất cho đôi mắt. Những điểm này thường ở thật xa, vô tận, chẳng hạn như cụm mây xanh trên trời, con đường hun hút trước mặt, đỉnh núi tuyết ở đằng xa... Theo bác sĩ Rafael, việc nhìn ở xa như vậy giúp cho tín hiệu ở mắt và ở cơ quan cảm nhận tín hiệu trong tai bạn thống nhất với nhau.
Ngoài ra, việc ngồi xe, ngồi thuyền hay phi cơ vào buổi tối được ghi nhận là ít làm say sóng hơn ban ngày. Chuyện này cũng dễ hiểu vì vào buổi tối, mắt bạn không nhìn thấy nhiều những vật lắc lư.
Ảnh hưởng của thực phẩm, mùi vị...
Bạn chắc chắn dễ bị say nóng hơn với một bụng no ắp, vì khi bụng no, bạn dễ bị nôn mửa hơn. Việc uống rượu quá nhiều cũng làm cho bạn đi đứng ngả nghiêng. Cơ thể lúc đó vừa bị mất thăng bằng do men rượu, vừa bị mất thăng bằng do chuyển động của tàu hay xe đang ngồi. Ảnh hưởng kép của cả hai sẽ làm cơn nôn mửa đến dễ dàng hơn.
Ngoài ra, những mùi khó ngửi như xăng trong buồng máy tàu hoặc khói xe... cũng có tác dụng làm nôn mửa nhanh hơn.
Hít thật nhiều không khí trong lành
Đừng ngồi trong cabin tàu mà hãy lên boong để hít không khí trong lành và có tia nhìn xa hơn. Tương tự, khi ngồi trong xe, nên quay kính xuống để gió bên ngoài lùa vào, sẽ ít say sóng hơn. Khi trong phi cơ, hãy mở ống xịt gió ngay phía trên đầu bạn.
Giữ cho đầu cổ đừng bị lắc lư
Đầu bị lắc lư nhiều sẽ làm bạn dễ say sóng hơn. Nếu không thể giữ yên được thì hãy tìm một chỗ dựa.
Hãy giành làm tài xế nếu bạn bị say sóng
Bạn có để ý rằng việc nhìn một chiếc xe chạy trên đường hoặc nhìn vào màn ảnh ti vi thường làm bạn ít bị chóng mặt hơn? Tại sao? Vì bạn có thể tiên đoán trước được những vật đó sẽ di chuyển đến đâu, và việc này làm bớt đi cảm giác say sóng.
Trên một chiếc xe, tàu, hay phi cơ cũng vậy. Chỉ có người tài xế là biết được xe sắp nghiêng qua phải hay qua trái sau khi họ bẻ tay lái, hoặc cơ thể họ sẽ bị đẩy tới trước hay giật ngược về sau tùy theo hành động đạp ga hay thắng của bàn chân.
Hãy che hai bên mắt lại
Theo bác sĩ Roderic, chuyên khoa về bệnh say sóng tại Oregon, nguyên nhân chủ yếu gây say sóng là do hình ảnh thu nhận được từ hai bên góc mắt. Thí dụ, khi bạn ngồi xe, mắt nhìn thẳng, nhưng vẫn biết được bên phải hoặc bên trái có hai hàng cây chạy thụt lùi về phía sau. Đó chính là hình ảnh làm bạn say sóng nhiều nhất. Hãy dùng hai tay che hai bên thái dương (giống như hai miếng da nhỏ thường dùng bịt hai mắt con ngựa) để mắt không còn nhìn thấy những cảnh vật chạy thụt lùi đó nữa, chỉ chăm chú nhìn phía trước.
Uống thuốc say sóng
Tại các nhà thuốc tây thường có bán thuốc say sóng dưới các nhãn hiệu như Bonine hoặc Dramamine. Mỗi liều thuốc 1 hoặc 2 viên, giúp tránh say sóng trong một ngày. Uống thuốc vài tiếng trước khi đi. Uống quá trễ sẽ không có công hiệu.
Mẹo vặt:
- Vài lát gừng có công dụng tốt hơn thuốc say sóng. Bạn có thể nhai gừng sống, uống trà gừng, hoặc uống 2 viên thuốc gừng bán sẵn trong các tiệm thuốc. Các thí nghiệm cho thấy gừng có khả năng chặn đứng chứng nôn mửa.
- Châm cứu: Y học Trung hoa có thể ngăn chặn chứng nôn mửa bằng cách dùng đầu ngón tay nhấn mạnh và giữ chừng vài phút trên huyệt đạo ở cổ tay (chỗ trũng giữa 2 gân tay, phía trên chỗ bác sĩ thường bắt mạch chừng 4 cm).

Làm sao giảm bớt cơn say

Người đăng: Doctor Van Thanh 0 nhận xét

Làm sao để giảm bớt cơn say?

Là đàn ông, bạn có lẽ đã ít nhất một lần say rượu đến nhừ tử, đến nôn mửa...
Văn chương bình dân Việt Nam tại các bàn nhậu thường có câu: "Một xị mở mang trí tuệ, hai xị giải phá cơn sầu, ba xị có thấm tháp vào đâu..., sáu xị cho chó ăn chè, bảy xị vợ đem về cạo gió". Khi bạn đã uống đến mức cho chó ăn chè hoặc vợ đem về cạo gió thì cái cảm giác vật vã này sẽ không chỉ có ở đêm đó mà thôi, nó còn kéo dài qua đến ngày hôm sau. Bạn thức dậy cảm thấy mình mẩy ê ẩm, mọi khớp xương trong người tưởng chừng như rã rời...
Các phương pháp dưới đây sẽ giúp bạn giảm được các cảm giác lừ đừ, ê ẩm này; đồng thời cũng góp phần không nhỏ trong việc làm giảm bớt cơn say.
A- Làm giảm bớt cơn say
Đôi lúc trong đời sống, việc uống rượu hầu như không thể tránh được. Bạn có thể phải uống rượu vì lịch sự, vì xã giao, vì muốn một công việc được trót lọt. Một đôi lần tham dự tiệc cưới, tiệc sinh nhật của một người bạn thân, tuy bạn không muốn uống nhiều nhưng lại không muốn làm mọi người mất vui. Thì đây, một số mẹo vặt nhỏ có lẽ tạm đủ cho bạn chung vui một cách không quá dè dặt và vẫn còn đủ tỉnh táo cho đến cuối bữa tiệc.
Hãy uống với tốc độ chậm
Cơ thể bạn có khả năng tiêu hóa chừng 35-40 ml rượu nguyên chất trong mỗi tiếng đồng hồ (lượng rượu này bằng khoảng 1 lon bia = 1 ly rượu chát). Nếu bạn có thể uống chậm hơn mức này, bạn sẽ không bao giờ biết say.
Đừng uống lúc bụng trống rỗng
Ai từng uống rượu cũng biết rằng uống lúc bụng đói sẽ dễ say hơn rất nhiều. Theo bác sĩ Mack M., Phó chủ tịch Cơ quan Y khoa Nghiên cứu về ảnh hưởng của rượu tại Maryland, thực phẩm trong dạ dày có khả năng làm chậm mức hấp thụ rượu của cơ thể; và cơ thể càng hấp thụ rượu chậm bao nhiêu, bạn càng ít say bấy nhiêu. Cảm giác say xuất hiện là do tác dụng của rượu đối với não; rượu thấm vào máu qua đường tiêu hóa, rồi máu dẫn rượu lên não.
Đừng uống những rượu có chất hơi
Các loại rượu có chất hơi như bia, champagne, rượu mạnh pha với soda hay các loại nước ngọt có hơi khác... thường làm bạn say nhanh hơn những loại rượu không có hơi. Những bọt hơi trong rượu có tác dụng đẩy nhanh sự dẫn nhập của rượu vào máu và vì thế, bạn dễ say hơn.
Muốn kiểm chứng việc này không có gì khó, hãy uống lượng rượu đủ làm cho bạn say (3 ly rượu mạnh chẳng hạn) pha với soda và xem đồng hồ để biết khi nào cảm giác ngà ngà đến với bạn. Vài ngày sau, cũng với loại rượu này, nhưng bạn uống 3 ly không pha so da trong cùng thời gian. Hãy so sánh và tự tìm ra kết quả.
Đừng bao giờ "cụng" với những người to con hơn bạn
Nếu bạn được trời sinh ra với vóc dáng nhỏ nhắn, đây là một thiệt thòi lớn cho bạn trong bàn tiệc.
Bạn cân nặng 50 kg, nếu uống cùng lượng rượu với một người cân nặng 80 kg thì khi làm xét nghiệm về lượng rượu trong máu, các chỉ số của người kia sẽ chỉ vào khoảng phân nửa của bạn. Vì vậy, nếu bạn nhỏ con, hãy uống chậm và uống ít hơn người to con.
Uống sinh tố B
Các thí nghiệm cho thấy rằng, rượu làm mất đi nhiều sinh tố cần thiết cho cơ thể bạn, đặc biệt là các loại sinh tố B. Đó là một trong những nguyên nhân làm bạn cảm thấy khó chịu khi say rượu. Việc uống sinh tố B6 và B complex sẽ giúp bạn rất nhiều trong việc chống lại cảm giác say rượu.
Ghi chú: Các loại sinh tố được bán tự do tại các nhà thuốc tây. Dù sao, việc uống quá nhiều bất cứ loại thuốc nào, kể cả các sinh tố, đều không tốt cho cơ thể. Sinh tố B6 là một độc chất nếu uống quá nhiều.
Lợi ích của các khoáng chất và amino acid
Ngoài các sinh tố cần thiết, rượu còn làm mất đi các khoáng chất và các amino acid trong cơ thể nữa. Nếu bạn tiếp tế nhiều những chất này cho cơ thể, cơn say sẽ nhẹ hơn.
Bạn có để ý rằng việc uống rượu mạnh pha với nước muối Perier nhập cảng từ Pháp sẽ tạo nên hương vị "ngọt ngào" và làm cơn say "đằm" hơn so với uống rượu pha soda thường? Đó là do tác dụng của khoáng chất trong nước suối. Nhưng nếu bạn không dùng Perier, mà pha rượu với một loại nước suối khác không có gas như Vivian hay nước lọc chẳng hạn, bạn sẽ thấy cơn say càng "đằm" hơn rất nhiều.
Tác dụng làm bớt cơn say của các amino acid cũng được chứng minh qua các nghiên cứu tại phân khoa chuyên môn về các chứng nghiện của đại học Khoa học Sức khỏe Texas. Các loại amino acid thường có bán tại các nhà thuốc tây dưới dạng viên.
B- Cảm giác nhức đầu, lừ đừ sau khi tỉnh rượu
Nếu cơn say rượu làm bạn có cảm giác khó chịu như choáng vàng, nôn mửa, thì cảm giác lừ đừ mệt mỏi và cơn nhức đầu như búa bổ sau cơn say cũng làm bạn khó quên; thậm chí còn có thể làm bạn mất một ngày làm việc nữa. Để không bị cảm giác này, nhiều người đề nghị uống rượu X.O. (loại rượu có số tuổi ít nhất 50 năm, và dĩ nhiên rất đắt tiền). Những phương pháp dưới đây có thể mang lại cho bạn cảm giác thoải mái hơn.
Uống hai viên alka-seltzer trước khi ngủ
Nếu không có alka-seltzer, bạn có thể thay thế bằng aspirin, tylenol, acetaminophen hay advil, ibuprofen. Các thuốc này có công dụng trị đau nhức, uống trước khi ngủ sẽ có công hiệu tốt cho ngày hôm sau.
Tại sao alka-seltzer tốt hơn? Như trên đã nói, chất lỏng có hơi tiêu hóa nhanh hơn loại không có hơi. Alka-seltzer chẳng qua là một loại aspirin có hơi mà thôi.
Uống sinh tố B, khoáng chất và amino-acid
Sự mất mát của 3 loại trên có thể bù đắp trước hay sau lúc uống rượu. Nếu bạn quên không tiếp tế 3 chất này cho cơ thể trước hay trong khi uống rượu, thì đừng quên uống chúng với thật nhiều nước trước khi đi ngủ. Đừng để phải thức dậy vào buổi sáng với đầu nhức như búa bổ, tâm trí bần thần, miệng thì khô đắng.
Để tránh cảm giác trên, có thể uống chung một lúc 2 viên L-tyrosine loại 500 mg (amino acid), 1 viên B50, và 1 viên B6 loại 100 mg.
Uống nước cam pha với mật vào buổi sáng
Cả hai chất này đều chứa đường fructose, một loại đường có khả năng giúp cơ thể tiêu hóa chất rượu nhanh hơn. Hãy uống một ly lớn vào buổi sáng lúc mới thức dậy, bạn sẽ tỉnh táo và đỡ khát nước.
Một ly cà phê đậm đà
Cảm giác nhức đầu sinh ra do sự trương căng quá độ của mạch máu dưới ảnh hưởng của rượu. Cà phê có tác dụng ngược lại, sẽ làm các mạch máu này hết căng, và chứng nhức đầu cũng hết theo. Nhớ là uống cà phê vừa đủ để trung hòa ảnh hưởng của rượu thôi, đừng để sau đó lại bị nhức đầu và tim đập mạnh do ảnh hưởng của lượng cà phê còn sót lại.
Ghi chú: Cà phê chỉ tác dụng ngược với rượu trên triệu chứng nhức đầu mà thôi, hoàn toàn không có công hiệu "giải rượu" khi say. Có rất nhiều người lầm lẫn về điều này.
Một bữa ăn bồi bổ
Nếu không mệt đến nỗi chê cơm chán cháo, bạn nên ăn một bữa đầy đủ dinh dưỡng để bù đắp lại những thứ bị mất trong cơn say. Bữa ăn nên có nhiều chất đạm (có nhiều trong thịt, cá), carbonhydrat (có nhiều trong cơm gạo, giúp tăng cường các amino acid trong máu); ăn nhiều rau xanh để bồi bổ lượng sinh tố và khoáng chất bị mất. Kiêng đồ ăn có dầu mỡ.
Mẹo vặt:
- Trước khi uống rượu, uống 2 viên 50 mg sinh tố B6, kèm theo 1 viên sinh tố B-100 để làm bớt say hơn phân nửa. (Lưu ý: sinh tố B6 không nên dùng thường xuyên vì có thể gây biến chứng không tốt).
- Việc ăn vài bát cơm với rau luộc trước khi uống rượu có thể giúp bạn "cầm cự" rất lâu. Trong cơm, gạo, cám... có nhiều sinh tố B và carbonhydrat. Trong rau luộc (các loại rau màu xanh đậm như rau muống, rau dền, rau sà lách son) có nhiều khoáng chất, toàn là những chất bị mất nhiều nhất trong lúc uống rượu. Nếu trong lúc ăn cơm bạn lại còn "giải khát" bằng một ly nước cam pha mật nữa... thì có lẽ bạn sẽ là một trong những người còn tỉnh táo cuối cùng trong bàn rượu, đồng thời là người duy nhất thức dậy sáng hôm sau rất tề chỉnh, làm việc bình thường. Lưu ý: không nên vo gạo kỹ trước khi nấu cơm, sẽ làm mất hết các sinh tố trong gạo.

Sỏi thận

Người đăng: Doctor Van Thanh 0 nhận xét

Bệnh sỏi thận

Sỏi thận là những tinh thể của muối và kim loại tích tụ lại trong thận. Chúng thường gây đau đớn dữ dội. Một người từng bị bệnh này đã phát biểu: "Tôi thường nghĩ trên đời không có gì là tôi không chịu được. Tôi từng chịu cho nha sĩ khoan vào răng mà không cần chích thuốc tê. Nhưng khi bệnh sỏi thận đến với tôi... tôi đã phát khóc lên". Câu nói này đủ cho bạn cảm giác được phần nào nỗi đau đớn mà căn bệnh gây ra.
Với sự tiến bộ của y học ngày nay, các bác sĩ chắc chắn có nhiều phương pháp để làm cho viên sỏi trong thận của bạn tan đi trong thời gian vài tháng (và bạn sẽ phải hết sức kiên nhẫn chịu đựng nỗi đau khổ do viên sỏi gây ra trong vài tháng ngắn ngủi này).
Điều mà các bác sĩ không chắc chắn là sau khi một viên sỏi tan đi, viên sỏi mới có thể xuất hiện nữa hay không. Nếu bạn từng bị một viên sỏi (và đã được chữa trị), xác suất bị thêm viên nữa sẽ rất cao. Và nếu bạn đã từng bị hai viên sỏi, xác suất bị thêm nhiều viên khác lại còn cao hơn nữa.
Chuyện này tương đối dễ hiểu, vì các thói quen (như ăn uống chẳng hạn) trong đời sống thường ngày của bạn đóng vai trò chính yếu trong việc sản xuất những viên sỏi này. Nếu chỉ chữa trị làm tan viên sỏi mà không sửa lại các thói quen xấu đó, hầu như chắc chắn bạn sẽ bị thêm viên nữa... và nhiều viên nữa.
Sỏi thận có nhiều loại, chỉ bác sĩ chuyên khoa mới có thể phân biệt được chúng, và từ đó chỉ cho bạn các phương pháp để ngăn ngừa. Dù sao, những phương pháp sau đây sẽ giúp bạn không ít trong việc ngăn ngừa sự thành hình của những viên sỏi thận.
Hãy uống nhiều nước
Không cần biết viên sỏi có thể bị thuộc loại gì, biện pháp hay nhất để ngăn ngừa nó là hãy uống nhiều nước. Lượng nước nhiều trong cơ thể sẽ làm giảm nồng độ của các muối khoáng trong nước tiểu và từ đó giảm nguy cơ kết thành tinh thể (sỏi) của các muối khoáng này.
Uống nhiều là bao nhiêu? Đủ để bạn có thể đi tiểu ra được 2 lít một ngày. Các bác sĩ chuyên khoa về thận thường khuyên như vậy. Bạn có thể đi tiểu vào một bình sữa bằng nhựa để đo tổng số nước tiểu trong một ngày.
Đừng ăn thực phẩm có chất oxilate
Oxilate là một gốc axit có khuynh hướng tác dụng với các kim loại như canxi và tạo ra sỏi thận. Theo các nghiên cứu, đa số các viên sỏi thận là sự kết hợp của oxilate và canxi. Thông thường, chất này sau khi vào cơ thể sẽ được thải ra ngoài; nó chỉ không được loại bỏ nếu hệ thống bài tiết oxilate của bạn có trục trặc. Khi đó, nó sẽ tác dụng với canxi và tạo nên sỏi thận.
Trong trường hợp này, bạn nên hạn chế tiêu thụ rau cải hoặc trái cây chứa oxilate như bầu, bí, các loại đậu, cần, ngò, ớt xanh, rau dền, nho, chocolate, trà, các loại berries như blueberries, strawberries... Riêng nước trái cranberries lại được người ta dùng để ngừa bệnh sỏi thận. Tác dụng ngăn ngừa này không có lý luận y học nào khả dĩ chứng minh được, người ta chỉ dựa vào kinh nghiệm của các bác sĩ mà đưa ra giả thuyết này thôi.
Cẩn thận với canxi
Theo các thống kê tại một số đại học y khoa, trên 90% các viên sỏi thận đều được hình thành từ canxi và các hợp chất của nó.
Điều này không có nghĩa là bạn phải tránh ăn uống những thực phẩm có canxi (như sữa, bơ, phó mát) vì chất này có ích cho xương của bạn (bạn có thể bị chứng khòm lưng hay rút người lại trong tuổi già nếu thiếu canxi).
Cơ thể bạn thà hay thiếu canxi? Điều này thật khó biết. Chỉ biết rằng khi bạn đã lỡ bị một viên sỏi và bác sĩ cho biết đây là sỏi canxi thì bạn cần giảm mức độ tiêu thụ chất này để tránh việc hình thành một viên sỏi khác.
Ngoài sữa và những thực phẩm được chế từ sữa, bạn còn nên cẩn thận khi dùng thuốc trị bệnh dạ dày hoặc bệnh đầy hơi (gọi chung là thuốc antacid). Nhiều thuốc loại này chứa rất nhiều canxi. Nên đọc kỹ thành phần cấu tạo trên nhãn hiệu trước khi mua.
Ghi chú: Các thuốc antacid thường chứa 1 hoặc 2 trong 3 chất là canxi, aluminum và magiê. Canxi thường làm tích tụ thêm chất vôi trong thận, trong khi magiê lại có khuynh hướng làm giảm đi. Cả hai chất đều là kim loại, dễ tác dụng với oxilate để tạo ra chất kết tủa. Nhưng cái khác nhau là chất kết tủa của canxi lâu ngày sẽ đóng thành tinh thể tạo ra sỏi thận; còn chất kết tủa của magiê có công dụng giống như cảnh sát, tìm bắt kẻ xấu là oxilate và đuổi chúng ra ngoài cơ thể.
Ảnh hưởng của các sinh tố
Có 2 loại sinh tố rất hữu ích cho bệnh sỏi thận là sinh tố B6 và sinh tố A. Sinh tố B6 nếu uống chừng 10 mg mỗi ngày sẽ có khả năng làm giảm lượng oxilate trong nước tiểu.
Sinh tố A có tác dụng giữ cho hệ thống bài tiết nước tiểu được điều hòa để chống lại sự thành hình của sỏi thận. Lượng sinh tố A cần thiết cho cơ thể (RDA) là 5.000 IU mỗi ngày. Bạn có thể uống thuốc viên bán tại các tiệm thuốc tây, hoặc ăn nhiều súp lơ xanh, gan bò và những trái cây hoặc rau cải có màu cam như cà rốt, bí đỏ, apricot...
Nếu các sinh tố A và B6 có ích cho bệnh nhân sỏi thận thì sinh tố D và C lại có hại. Nếu bạn từng bị bệnh thận, nên tránh tiêu thụ quá 400 IU sinh tố D trong một ngày. Sinh tố C tuy ít gây hại nhưng cũng đừng nên uống quá 3 g mỗi ngày vì nó có ảnh hưởng không tốt cho bệnh sỏi thận.
Hạn chế ăn muối
Cố hạn chế lượng muối ăn vào không quá 3 g mỗi ngày. Muối cũng có nhiều trong các loại dưa muối, kim chi và phó mát. Khi ăn các đồ hộp hoặc các loại "chip", nhớ xem kỹ lượng muối kê khai trong bản thành phần cấu tạo trên nhãn hiệu.
Đừng nằm rồi ngồi suốt ngày
Sự hoạt động và thể dục nhẹ có tác dụng thu thập lượng canxi trong máu và nước tiểu để tích tụ về xương. Bạn rất cần canxi để giữ cho xương cứng cáp nhưng lại rất kỵ việc có chất này ở trong nước tiểu. Nếu bạn làm việc văn phòng và lại thích xem ti vi, đọc sách suốt thời gian không phải làm việc, hãy bỏ thói quen đó. Nên dành dành vài mươi phút mỗi ngày để tập thể dục nhẹ như đi tản bộ, cỡi xe đạp...
Tránh ăn nhiều chất protein
Protein có nhiều ở tất cả các loại thịt động vật như lợn, bò, gà, vịt. Ngay cả cá, tôm, cua, sò ốc, bơ sữa, đậu nành cũng giàu protein.
Bác sĩ Brian thuộc Đại học New York (Mỹ) sau nhiều cuộc nghiên cứu đã cho biết: Giữa việc ăn nhiều protein và bệnh sỏi thận có một mối liên hệ hết sức mật thiết. Các thí nghiệm cho thấy, việc ăn nhiều protein có khuynh hướng làm gia tăng lượng axit, canxi và phốt pho trong nước tiểu. Những chất này dễ tạo ra chứng sỏi thận.
Tuy nhiên, cũng đừng nghĩ là bạn phải ăn chay trường. Mỗi ngày bạn vẫn có thể ăn tối đa chừng 200 g thịt, cá. Nhớ là đừng bao giờ vượt quá con số này nếu bạn đã từng bị sỏi thận.
Mẹo vặt:
Mỗi ngày uống khoảng 20-30 mg sinh tố B6 cùng với chừng 500 đến 600 mg chất magiê (bán chung với các sinh tố tại tiệm thuốc tây). Phương pháp này đã giúp rất nhiều người tự chữa khỏi bệnh sỏi thận của mình.

Rụng tóc

Người đăng: Doctor Van Thanh 0 nhận xét

Rụng tóc

Bệnh rụng tóc có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu của nhiều người. Bệnh thường xảy ra ở những người có độ nhờn của tóc trên mức trung bình, nôm na là tóc dầu.
Nếu bạn có mái tóc dầu, bạn sẽ hiểu được nỗi bực bội mà nó gây ra. Sáng sớm thức dậy, bạn bỏ ra vài mươi phút chải chuốt, trang điểm, làm một kiểu tóc thật đẹp... để rồi phải chứng kiến kiểu tóc đẹp này biến mất vào buổi trưa, khi dầu ở chân tóc tiết ra quá nhiều làm cho tóc bạn bị "xẹp" xuống...
Nếu triệu chứng này xuất hiện nơi bạn, hãy để ý chăm sóc mái tóc của mình trước khi quá muộn.
Một mái đầu trung bình có khoảng 130.000 đến 150.000 sợi tóc. Điều này có nghĩa là bạn cũng có chừng đó chân tóc, và chừng đó tuyến dẫn dầu lên mái tóc bạn.
Thông thường, bệnh rụng tóc chỉ xuất hiện ở những người có sợi tóc mềm và mỏng. Bệnh này tấn công phái nam nhiều hơn là phái nữ. Trung bình một người đàn ông có trên 300 sợi tóc trên một cm2 da đầu, trong khi ở phụ nữ chỉ vào khoảng 280 sợi. Tóc của phụ nữ thường cứng và dày hơn phái nam; thường bệnh rụng tóc chỉ bắt đầu tấn công phụ nữ khi tóc của họ bắt đầu bị mỏng trở lại.
Nhìn chung, bệnh rụng tóc thường có nguyên nhân từ mái tóc dầu. Mức dầu quá nhiều chung quanh chân tóc sẽ làm sự lưu thông của máu nuôi chân tóc bị nghẽn lại. Từ đó, chân tóc ngày càng teo nhỏ, tóc trở nên mỏng hơn, cho đến lúc chân tóc biến mất. Lúc đó, da đầu trở nên bóng, và việc mọc tóc trở lại rất khó khăn.
Bạn đang bị tóc dầu? Tóc bạn trở nên mỏng hơn lúc trước? Những phương pháp dưới đây giúp bạn làm tóc bớt dầu hơn, và một số thuốc bôi có thể làm tóc mọc trở lại ít nhiều.
Gội đầu thường xuyên
Nên gội đầu ít nhất mỗi ngày một lần với các loại shampoo có màu trong suốt (như các hiệu Neutrogena hoặc Revlon, Clean & Clear...), chọn loại có chữ "for oily hair". Loại này thông thường có pha thêm những chất giữ dầu lại hoặc cho thêm dầu vào tóc.
Nên xoa bóp da đầu để ép dầu ra khỏi chân tóc trước và trong khi gội đầu để có thể lấy dầu tối đa ra khỏi chân tóc. Khi gội, nên giữ chừng 3 - 5 phút trước khi xả để shampoo có thể lấy hết dầu trên tóc và chân tóc ra.
Khi gội xong, nên xem lại dầu đã hoàn toàn ra hết chưa. Thường để lấy thật sạch dầu ra khỏi tóc và chân tóc, bạn cần gội shampoo hai lần, cho đến khi tay vuốt vào tóc phát ra tiếng kêu két là tóc sạch.
Đừng dùng Hair Conditioner
Các loại hair conditioner bán trên thị trường thường có công dụng bảo vệ tóc khô, hoặc tóc bị hư hại bởi các hóa chất từ thuốc nhuộm, keo xịt... mà ra. Người có mái tóc nhờn không nên dùng conditioner. Nếu thích, hãy dùng loại "for oily hair". Loại này sẽ không cho thêm dầu vào mái tóc vốn đã quá nhiều dầu của bạn.
Dùng "Hot Oil Treatment"
Phương pháp này phát xuất từ châu Âu và được chứng minh là rất có hiệu quả trên mọi loại tóc, từ tóc dầu đến tóc khô, tóc bị chẻ hai, tóc bị nhuộm hay dùng keo quá đáng...
"Hot Oil Treatment" có công dụng làm nở chân tóc ra để dầu trong chân tóc có thể tiết ra ngoài và các dược phẩm trong Hot Oil có thể chấm sâu vào chân tóc.
Bạn có thể tìm mua "Hot Oil Treatment" đựng trong những ống nhỏ bằng plastic, dưới các nhãn hiệu như "Tresemmé, Revlon, Swiss formula Steves, Vital-V-Care...". Thường có hai loại là Extra Body và Moisturized. Nên chọn loại extra body nếu bị tóc dầu.
Đừng suy nghĩ nhiều
Việc tập trung suy nghĩ nhiều có thể làm nhiệt độ ở chân tóc nâng cao và sản xuất dầu nhiều hơn. Đồng thời, sự suy nghĩ quá độ cũng làm cơ thể tiết ra kích thích tố androgen. Chất này kích thích sự sản xuất dầu trên tóc. Bạn có thể nhìn thấy dễ dàng điều này trong đời sống hằng ngày: Thường những người sói đầu đều là những người có thói quen hoặc làm những nghề bắt buộc phải suy nghĩ nhiều.
Thuốc mọc tóc
Hiện nay chỉ 3 loại thuốc có thể làm tóc mọc trở lại là Placebo, Minoxidil (dưới nhãn hiệu Rogain) và Zhangguang. Cả 3 loại thuốc này đều có công dụng điều hòa sự lưu thông của máu và tăng cường sự lưu thông này tại các chân tóc.
Thuốc minoxidil làm 26% bệnh nhân mọc tóc lại một cách đáng kể, 33% mọc lại chút ít, và 41% không có hiệu quả. Khuyết điểm duy nhất của minoxidil là thuốc này thường chỉ có hiệu quả trên đỉnh đầu mà thôi, không làm tóc sói ở trên trán mọc lại.
Thí nghiệm tương tự với 600 người đàn bà tại châu Âu và Mỹ trong 32 tuần lễ cho thấy, thuốc Placebo làm 9% bệnh nhân mọc tóc lại một cách đáng kể, 31% mọc lại chút ít, và 60% không có hiệu quả. Thuốc Minoxidil làm 23% bệnh nhân mọc tóc lại một cách đáng kể, 34% mọc lại chút ít, và 43% không có hiệu quả. Thí nghiệm với hơn 8.300 bệnh nhân cả nam lẫn nữ tại Trung Quốc trong thời gian 14 tuần lễ cho thấy, thuốc Zhangguang làm 85% bệnh nhân mọc tóc lại một cách đáng kể, 12,6% mọc lại chút ít, và 2,6% không có hiệu quả .
Hai loại thuốc Placebo và Minoxidil chỉ được bán khi có đơn bác sĩ. Thuốc Zhangguang được nhập cảng từ Trung Quốc và bán tự do ở các tiệm thuốc Bắc.
Thuốc Zhangguang được phát minh tại Trung Quốc, là sự kết hợp các dược thảo Angelica Archangelica, Anatherum Muricatus, Chang Baishan Radix Ginseng, Carya Alba... và 5 loại dược thảo khác. Thuốc này được nhiều quốc gia công nhận và đạt nhiều giải thưởng.
Kinh nghiệm cho thấy, việc kết hợp thuốc Zhangguang và Hot-Oil-Treatment sẽ làm tóc mọc nhanh hơn.


 

Răng và lợi

Người đăng: Doctor Van Thanh 0 nhận xét

Răng và lợi

Ở các nước tân tiến hiện nay, những từ ngữ "tartar" và "plaque" hầu như nhan nhản nơi đâu cũng có. Plaque là chất bợn màu kem bám vào răng, tiếng Việt gọi là "ke". Một buổi sáng sớm trước khi đánh răng, bạn đưa tay lên cạo dọc theo một chiếc răng, sẽ thấy ngay chất này đóng trên móng tay bạn. Nếu đem một chút ke này bỏ lên kính hiển vi, bạn sẽ thấy rợn người vì thấy hiện lên một ổ vi khuẩn, trong đó những vi khuẩn còn sống chen lẫn với xác của những vi khuẩn đã chết...
Nếu chất ke hay plaque này không được lấy ra khỏi răng (qua việc đánh răng mỗi sáng chẳng hạn), sau 12 ngày chúng sẽ trở nên cứng như đá. Chất cứng này các bác sĩ Tây Âu gọi là tartar, gây ô và vàng răng.
Thật ra chất plaque không cần phải chờ đến 12 ngày mới trở nên thật cứng. Sau 2 ngày, chúng đã cứng bằng phân nửa độ cứng của tartar rồi. Lúc này, plaque đã trở nên rất khó lấy ra khỏi răng; và một khi đã trở thành tartar, chỉ có nha sĩ mới cạo ra được.
Răng vàng, răng ố thì đã sao?... Một số người nghĩ như vậy. Chuyện này thực sự không đơn giản. Ngoài việc làm răng bạn mất vẻ trắng đẹp tự nhiên, tartar và plaque còn làm miệng bạn trở nên hôi hơn. Nếu để lớp tartar và plaque đóng quá lâu, bạn có thể bị những bệnh sâu răng và viêm lợi.
Bạn không thể lấy tartar ra khỏi răng, nhưng có thể ngăn ngừa tartar bằng cách tấn công palque trong lúc chất này chưa cứng lại thành tartar bằng những phương pháp sau:
Đánh răng
Đánh răng một cách hữu hiệu để lấy chất plaque ra không phải là chuyện đơn giản. Hầu hết mọi người đều không có một phương pháp đánh răng đúng cách. Nha sĩ William nói như vậy.
Bạn đánh răng từ trái qua phải rồi từ phải qua trái theo hàng ngang? Sai!
Bạn đánh răng từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên theo hàng thẳng đứng? Cũng sai nốt!
Muốn đánh răng một cách hữu hiệu để lấy plaque ra khỏi răng, bạn phải đặt mặt bàn chải vào chỗ tiếp xúc giữa răng và lợi, góc độ hơi nghiêng để bàn chải vừa tiếp xúc với răng vừa tiếp xúc với lợi cùng một lúc. Ở vị trí này, mặt bàn chải sẽ hơi nghiêng so với mặt răng một góc chừng 30 đến 45 độ. Sau khi đặt bàn chải đúng cách, bạn bắt đầu đánh răng. Không phải đánh ngang, cũng không phải đánh dọc, mà đánh theo những vòng tròn nhỏ. Mỗi lần chỉ đánh một vài chiếc răng, từ từ di chuyển từ phải qua trái hoặc từ trái qua phải cho đến hết một hàm trên hay hàm dưới. Tiếp tục sau đó với hàm còn lại.
Ngoài ra, bạn nên có 2 bàn chải, một dùng vào buổi sáng và một dùng vào buổi tối. Sau khi đánh răng, nhớ vung hoặc gõ bàn chải vào cạnh bồn rửa mặt để làm văng hết nước còn bám trên bàn chải ra. Một môi trường ẩm ướt có lợi cho sự sinh sản của vi khuẩn, vì thế cần giữ cho bàn chải đánh răng khô ráo thường xuyên.
Bàn chải răng máy có tốt hơn không? Có. Nên dùng loại có các sợi nylon tự xoay tròn trong lúc bàn chải đứng yên (như của các hiệu Super-Brush, Interplack, Rota-dent...). Loại bàn chải này có hiệu quả loại trừ plaque gần gấp đôi việc đánh bằng tay. Theo kết quả của một số thí nghiệm thì bàn chải máy lấy ra được khoảng 95 phần trăm số plaque bám trên răng, trong khi việc đánh bằng tay chỉ lấy được trên dưới 50 phần trăm.
Dùng chỉ "floss" giữa những kẽ răng
Người Việt Nam hay dùng tăm để lấy vụn thức ăn bị kẹt lại giữa những kẽ răng, thường lấy không hết vụn và những vụn này dễ sinh sâu răng. Đôi lúc đầu cây tăm to quá hay nhọn quáquá hoặc cạnh cây tăm tre sắc quáquá có thể làm lợi bị chảy máu, một cơ hội tốt cho các vi khuẩn xâm nhập, gây nhiễm trùng.
Ở các nước châu Âu hiện nay, người ta thường dùng một sợi chỉ đưa vào giữa kẽ răng để lấy đồ ăn thừa ra. Sợi chỉ này cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong việc trừ khử chất plaque trong những kẽ răng mà bàn chải không đánh tới. Nhìn chung, floss quan trọng không kém gì việc đánh răng. Loại chỉ floss có bán tại tất cả các tiệm thuốc tây. Nếu bạn không quen răng chỉ bằng tay, có thể mua loại được làm sẵn có cán nhỏ bằng plastic. Nhớ floss mỗi ngày và floss tất cả kẽ răng. Bạn không chỉ lấy đồ ăn thừa mà còn phải lấy hết plaque ra trước thời gian chúng cứng lại thành tartar.
Dùng kem đánh răng loại tốt
Một ống kem đánh răng loại tốt không đắt hơn loại rẻ tiền bao nhiêu, lại thường dùng được rất lâu. Hãy mua hàng của những hiệu có tiếng. Những kem rẻ tiền, theo kinh nghiệm của nhiều nha sĩ, thường không có đủ lượng flouride cần thiết cho răng.
Súc miệng sau khi ăn
Nếu bạn nghĩ rằng lời khuyên đánh răng sau mỗi bữa ăn của các nha sĩ là quá đáng, hãy làm một việc tối thiểu để bảo vệ hàm răng sau khi ăn: súc miệng thật mạnh bằng nước ấm. Hành động này có thể đẩy văng những vụn thức ăn ra khỏi kẽ răng...
Đồng thời, có lẽ bạn đã từng biết qua cái cảm giác mắc cỡ chết người khi về đến nhà, soi gương và khám phá ra một vụn hành, một vụn ớt nằm ngạo nghễ trên một chiếc răng cửa của mình, và bạn đã lỡ cười duyên với biết bao người trong buổi chiều hôm đó! Một miếng kẹo cao su (chewing gum) cũng tạm thay thế được việc đánh răng sau khi ăn. Nên mua loại không có đường (sugarfree).
Súc miệng bằng thuốc
Những loại thuốc súc miệng bán trên thị trường như Antiseptic, Listerine có thể làm giảm lượng plaque bám trên răng và các bệnh về răng. Những thí nghiệm tại Anh - Mỹ cho thấy việc dùng thuốc súc miệng Listerine có thể làm giảm số plaque trên 20%, giảm bệnh sưng lợi khoảng gần 30%.
Ngoài ra, với những loại thuốc súc miệng bán trên thị trường không có nhãn hiệu (loại generic - thường do các hiệu bào chế theo công thức của những hãng thuốc lớn) bạn nên tìm những loại trên nhãn đề "Compare to... (Listerine, Plak, hoặc Scope...)". Đồng thời nên xem thành phần cấu tạo trên nhãn thuốc. Các thuốc chứa cetylpridinium và domiphen bromide có công hiệu làm giảm chất plaque.
Cạo lưỡi
Việc tạo lưỡi cũng giúp ích rất nhiều cho việc loại trừ vi khuẩn làm hại răng. Lớp bợn đóng trên lưỡi thường làm mất vị giác, ăn không ngon. Chất bợn này không khác chất plaque bao nhiêu, có chứa toàn vi khuẩn và những đồ dơ không tốt cho răng và lợi. Có thể dùng cây cạo lưỡi bán ở chợ, một cái thìa hay bàn chải đánh răng của mình cũng được. Cào nhẹ 10 lần từ trong ra ngoài cho đến khi sạch chất bợn đóng trên lưỡi.
Làm sao để biết nơi nào bị plaque bám?
Khi đánh răng hằng ngày, bạn rất dễ bỏ sót một nơi nào đó trên hàm răng; và tại nơi này, plaque tha hồ hoạt động, gây xuất hiện tartar, hỏng răng, các bệnh về lợi... Bạn có thể bị mất những chiếc răng tại nơi này.
Làm sao để biết chỗ nào của hàm răng đã bị bạn quên lãng? Dễ thôi, đến hiệu thuốc tây mua một loại thuốc gọi là "plaque disclosing tablet"... Nhai nhỏ loại thuốc này trước khi đánh răng, các plaque còn bám vào răng sẽ bị nó nhuộm màu. Bạn soi gương thấy chỗ nào màu càng đậm, chỗ đó càng có plaque nhiều. Ghi nhớ vị trí của chúng và đánh kỹ những chỗ này hằng ngày.
Tăng cường canxi cho cơ thể
Răng của bạn dính liền vào xương hàm như những cây đinh đóng trên một miếng gỗ. Nếu miếng gỗ này bị mục nát, những cây đinh cũng sẽ rơi ra. Hãy giữ cho xương hàm cứng cáp bằng cách bồi bổ nhiều canxi cho cơ thể. Bạn có thể uống thuốc canxi mỗi ngày, hoặc uống nhiều sữa, ăn nhiều phó mát, cá thu, hạnh nhân, các loại rau cải có màu xanh đậm.
Lợi ích của bột nổi (baking soda)
Bạn đã từng thấy nhiều loại kem đánh răng và thuốc súc miệng có trộn baking soda. Chất này có công dụng làm răng trắng bóng hơn; nó trung hòa chất axit làm mòn răng được tiết ra từ plaque và các vi khuẩn khác trong miệng.
Nếu bạn không có sẵn kem đánh răng và thuốc súc miệng có baking soda, có thể dùng loại bột nổi trong bếp. Nhúng ướt bàn chải đánh răng, rắc chừng nửa thìa cà phê bột nổi lên bàn chải, đánh răng như thường. Khi súc miệng, hãy súc mạnh chừng nửa phút với ngụm nước đầu tiên để giúp số bột nổi còn sót lại trong lúc đánh răng có dịp làm sạch mọi nơi trong miệng.
Khi nào nên đi gặp nha sĩ?
Nếu con người có được hàm răng của loài cá sấu thì có lẽ đa số nha sĩ trên thế giới sẽ bị thất nghiệp, vì loài vật này thay răng ngay sau khi răng cũ bị rụng đi (trung bình một đời, con cá sấu có thể mọc 2.000 chiếc răng).
Chỉ tiếc rằng bạn không phải thuộc loại này. Bạn chỉ có 2 đợt răng, và đợt răng sữa đã rụng hết khi bạn còn rất nhỏ. Vì thế, bạn phải bảo vệ những chiếc răng hiện có một cách tuyệt đối. Ngoài những lúc bị nhức răng hoặc cần trám răng, bạn nên đến nha sĩ 6 tháng một lần nhờ họ cạo hết chất tartar trên răng đi. Đồng thời, nên đến nha sĩ khi thấy có những triệu chứng sau:
- Hôi miệng kéo dài nhiều ngày.
- Lợi ngắn lại làm những chiếc răng có vẻ dài ra.
- Lợi bị sưng.
- Răng lung lay.
Mẹo vặt:
- Nếu không có đồ cạo lưỡi sẵn ở nhà, có thể rắc chút muối ăn hoặc bột nổi vào bàn chải đánh răng và đánh nhẹ trên lưỡi. Bợn sẽ dễ tróc ra hơn, vi khuẩn đóng trên lưỡi cũng bị giết một cách mau chóng. Khi làm xong, nhớ súc miệng kỹ và nhổ hết muối còn thừa ra.
- Để tránh tốn kém, bạn có thể chế thuốc súc miệng tại nhà bằng cách pha một nửa thuốc sát trùng loại hydrogen peroxide 3% (có bán tại các nhà thuốc tây với giá rất rẻ) với một nửa nước. Thuốc này cũng có công dụng sát trùng và làm giảm plaque.
- Bạn bị hôi miệng và sắp có cuộc hẹn với nhân tình? Đừng lo, hãy đánh răng, súc miệng và cạo lưỡi kỹ với baking soda (bột nổi). Ngoài công dụng sát trùng và làm trắng răng, bột nổi còn có công dụng tẩy mùi hôi rất thần kỳ nữa.